TRANG CHÁNH  |  SINH HOẠT  |  NHẮN TIN  |  HÌNH ẢNH  |  VIDEO  | BÀI VIẾT  |  GIỚI THIỆU TRANG WEB BẠN  |  THƠ TỪ LIÊN LẠC

TRƯNG LÁ CA TÔI

MẶC NHÂN TVC & VÕ THÀNH DŨNG
 Một nén hương cho người đã khuất
Kính dâng lên Thầy Cô
 Trao về
bè bạn thân thương

 

      Trường Tiểu hc M Tho dưới thi Pháp thuc mang nhiu tênkhác nhau và bị di di nhiu ln do thi cuc. Chính Trường Tiểu học ny đã phải “tn cư” đến mt địa đim không phi ca nó và phải mang mt cái tên lịch s là “Trường Lá.Trường Lá hay trường Cu Bc tuy ch hin din trong khong thi gian 1946-1956, nhưng đã để li nhiu du n cũng như chuyên chở rt nhiều k nim êm đẹp ca nhng đứa hc trò tiểu hc ngày nào còn đi chân đất, mới học v lòng mà nay đều ngưỡng tht thp c lai hy và một số đã ra người thiên c. Từ thp niên 40, 50 của thế k trước hu hết nhng nam nữ học sinh xut sc ca Trường Trung học Nguyn Đình Chiểu đều xut thân t trường Tiểu hc M Tho, đặc bit là từ ngôi Trường Lá bạc phn nầy.

         Bài viết ca hai tác giả- Mặc Nhân TVC và Võ Thành Dũng - dù có thể học chung một trường và cùng chung một thy nhưng cảm nghĩ và nhận xét hoàn toàn khác nhau vì tuổi đời và tuổi hc trò của hai người có khoảng cách khá xa. Danh xưng “tôi” trong bài nầy có th ca người nầy hay người kia. Xin độc gi thông cm và lượng th.

 

 

 

    Hình 1

    Cô Nguyễn Th Tt đứng với nữ sinh tiu hc.

   Trong khuôn viên Trường Lá. 

     Một đứa học trò cũ của thầy, một người học trò cũ của một ngôi trường, khi tuổi đã lớn, thường hồi tưởng công ơn dạy dỗ của thầy xưa cũng như hoài cảm ngôi trường cũ đầy ấp kỷ niệm của tuổi học trò. Đây là bản chất của người Việt Nam vốn sống trong đạo lý nhân, lễ, nghĩa... đáng trân trọng lưu giữ.

Trong biết bao thiên hồi ký, ký sự, chuyện kể, thơ, văn các loại ...ca ngợi lòng tôn Sư trọng Đạo, nhắc nhở hình ảnh cửa Khổng sân Trình...ta thường bắt gặp rất nhiều bài chỉ viết về những bậc thầy ở các trường lớn từ trung học cũng như về các ngôi trường đồ sộ nguy nga mà ít khi nói đến những bậc thầy già nua dạy mình từ thuở còn thơ ấu ở bậc sơ học cùng với những ngôi trường ọp ẹp nghèo nàn xơ xác trong làng trong xóm...

Lẽ thường tình là như vậy, không sao! Nhưng hôm nay tôi bỗng nhớ đến một ngôi trường nghèo lắm, theo nghĩa bóng, mà tôi đã theo học từ lớp Đồng Ấu và với những thầy cũng nghèo lắm, cũng theo nghĩa bóng, mà lòng thấy ngậm ngùi thương nhớ làm sao.

                 “TRƯỜNG LÁ”

     Đó là “Trường Lá” chỉ cái tên không, ngày còn nhỏ tôi không có cảm nghĩ gì, nhưng bây giờ mỗi khi nhắc lại “Ngày xưa tôi học ở Trường Lá” cái tên quê mùa nầy cùng với hình ảnh những thầy cô như Thầy Lai, Thầy Tiếng, Thầy Đây, Thầy Nhơn, Thầy Nghị, Thầy Ngưu, Thầy Dậu, Thầy Giá, Thầy Trị, Thầy Vinh, Thầy Viễn, thầy Giảng, cô Huỳnh, Cô Lãnh, Cô Hường, Cô Lợi, Cô Huê, Cô Bạch, Cô Phùng Huê, Cô Hai, Thầy Hợi, Thầy Chận, Thầy Quạ, Thầy Tân,Thầy Mân, Thầy Nhược, Thầy Trị, Thầy Lại, thầy Thuyền, thầy Nam, Thầy Sách...(tôi xin lỗi quí Thầy Cô vì trí nhớ của tôi không cho phép tôi ghi danh tất cả trong bài viết nầy để tỏ lòng tôn kính và biết ơn). Quí Thầy Cô, theo trí óc trẻ thơ của tôi, có vẽ nghiêm khắc với học trò lắm và dường như quí Thầy Cô cũng tự nghiêm khắc với chính mình. Chỉ bao nhiêu đó thôi mỗi lần nhớ đến Thầy Cô cũng đủ cho tôi bồi hồi nỗi nhớ, bâng khuâng tấc dạ.

     Trường Lá, chỉ cái tên “Trường Lá” thôi cũng đủ cho tôi cảm thấy “thương nó” rồi. Thiếu gì trường xây cất bằng cây lá còn nghèo nàn hơn nữa kìa, mà cũng còn có được cái tên đàng hoàng. Chẳng hạn trường Đạo Thạnh, trường Mỹ Phong, thậm chí có cái trường cũng lợp lá, nhỏ xíu, ở trong hốc hỉnh của một xóm nhỏ đìu hiu mà cũng còn có tên là trường Xóm Vông. Thế mà trường tôi học ở ngay tại vùng đất phồn hoa đô hội, lại là một ngôi trường to lớn hàng ngang dãy dọc vậy mà lại mang cái tên quá khiêm nhượng là “Trường Lá”.

     Chưa hết, cái số của ngôi trường nầy có lẽ không có hậu cho nên còn có người cho nó mang cái tên vay tên mượn của cầu bắc tức là bến bắc, bến đò qua sông để đi qua miệt Rạch Miễu gì đó mà “nó” ở gần... là “Trường Cầu Bắc”. Bởi vì“nó” đã là ngôi trường “vô danh” nên vì số phận của nó đặt nó gần Cầu Bắc, nên người ta cũng gọi nó là trường “Cầu Bắc”. “Nó” lại ở gần phú-de nơi người ta nhốt chó, may mà người ta không nghĩ đến để ...thôi nói nhiều càng thêm tủi.

     Đấy một ngôi trường không tên không tuổi phải mang vào mình một cái tên không có tính văn hoá gì cả là “Trường Lá”, như vậy rồi lại có lúc phải vay mượn cái tên lạ hoắc là “Trường Cầu Bắc” thì còn thể thống gì nữa. Nhưng lý lịch của “nó” có phải vậy đâu! “Nó” vẫn thuộc dòng “trâm anh thế phiệt”, có tên có họ thuộc giòng dõi chính thống chớ. Ở phần sau chúng ta sẽ truy rõ căn nguyên hơn, còn bây giờ chúng ta trở lại ngôi “Trường Lá” cùng với những Thầy Cô của ngôi trường đầy ấp kỷ niệm của tôi trước đã.

               CẢNH CŨ TRƯỜNG XƯA

     Hơn sáu mươi năm về trước mỗi sáng trưa đến trường vừa buông tay chị nhìn vào ngôi trường ba gian yên ẳng như đợi chờ. Trong sân trường đã đầy ấp bạn bè trang lứa đang chạy nhảy, vui đùa...lòng tôi chợt thấy như đã hoà mình vào một cộng đồng trẻ thơ hồn nhiên, vô tư, vui sướng đó.

     Ngôi trường được xây cất thành ba gian hoàn toàn bằng cây lá. Gian giữa tôi không nhớ, nhưng có thể có 10 phòng học. Ở giữa có một phòng dành làm văn phòng của Thầy Hiệu trưởng. Phòng nầy được cất nhô ra như một tiền sảnh và có lan can theo hình chữ X bao quanh, hai bên có hai chậu cau kiểng. Hai gian hai đầu mỗi gian có thể là 5 phòng xây cất đối diện nhau tạo thành môt khu trường hình chữ U.

     Toàn bộ ba gian trường đều bằng cây lợp lá chằm (lá dừa nước róc ra chằm lại)tuy có vẽ nghèo nàn song được một cái là rất mát mẻ thêm vào các phòng học đều có chừa cửa sổ giương lên và hạ xuống bởi một tấm líp kết bằng tre lá,ngoài ra tất cả các gian phòng học đều có hành lang rộng rãi tránh mưa đở nắng.Sân trường rộng đủ chỗ cho các lớp thay phiên tập thể dục mỗi sáng. Giữa sân là cột cờ và hai bên là hai cây me tây còn gọi là cây còng do trái của nó giống như trái me còng, lớn hơn, có mắt và cong lại nên gọi là cây còng. Me tây là một loại cây mau lớn, tàn rộng cho nhiều bóng mát nên người ta thích trồng nơi các trường học. Sau Tết, gần vào hè là me tây cho bông. Bông me tây màu vàng anh, nhị đỏ, giống như bông me, không đẹp nhưng vì tàn to, bông nhiều nên khi trổ bông, cây me tây vẫn cho ta một cảnh sắc vui tươi trong sáng hợp với tuổi trẻ học trò. Có điều khi bông me tàn, trổ trái xong, trái già lại sắp vào mùa thay lá thì một tai họa cho đám học trò nhỏ nhất là các trò gái vì không biết bao nhiêu là sâu từ trên tàn cây, nhánh cây theo những dây tơ đung đưa, nhủng nhẳng, tòn ten....bám vào người vào áo của đám học trò vốn sợ sâu.

     Trường Lá thu nhận học sinh trai lẫn gái tuy nhiên các lớp học trai gái đều riêng biệt, Phần nhiều quí Cô dạy học trò gái, quí Thầy dạy học trò trai, tuy nhiên cũng không nhất thiết như vậy. Có một điều mà mãi tới bây giờ chúng tôi vẫn biết là mặc dù học chung trường nhưng có thể không cùng lớp, không chung thầy, nhưng chúng tôi vẫn coi nhau là những người bạn học thân thương và đều tôn kính tất cả Thầy Cô không dạy mình như chính là Thầy Cô của mình. Chúng tôi hảnh diện về điều nầy.

     Sân trường hoàn toàn là đất nên khô cằn cứng ngắt vào mùa nắng là nơi thử thách của những bạn năng động chạy nhảy, rượt bắt, đá banh...chỉ trợt chân một cái là lỗ mũi ăn trầu còn nhẹ thì cũng lã đầu gối. Còn khi trời mưa sân trường trơn trợt như thoa mở bò khiến cho mấy cô bé lớp chót không khỏi chụp ếch.

     Toàn bộ khu trường xây cất trên một thửa đất rộng hình chữ nhật nguyên là đất của Hãng Xáng. Gian giữa nhìn ra đường De Castelneau sau đổi là Trần QuốcTuấn còn gọi là đường Cầu Bắc vì nó dẫn ra cầu “bắc” sang sông Tiền đi Rạch Miễu. Lưng trường dựa vào giếng nước. Từ ngoài nhìn vào phía trái là con đường dọc theo bờ sông đi lên Vòng Nhỏ nơi đây có một nơi chứa sắt vụn gọi là phú-de do chữ ferrailles (sắt vụn) mà cũng là nơi nhốt chó hoang. Phía mặt là con đường rầy xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho cạnh bên có một cây đa cổ thụ. Mỗi khi xe lửa băng qua đường Trần Quốc Tuấn, phải có cổng chận xe và người đi bộ lại, nên nơi đây còn có thêm một địa danh là “Cổng xe lửa”. Ngồi học trong trường mỗi lần xe lửa chạy ngang, tiếng còi xe lửa hoét hoét hoà lẫn với tiếng máy chạy rì rầm điếc tai, bây giờ nhớ lại tôi còn cảm thấy một cái gì vui vui buồn buồn.

     Song song với những cái nhớ cái thương đó, chúng tôi như còn cảm thấy nhớ nhớ thèm thèm ...cái vị lành lạnh trong lưỡi của ly đá nhận xịt xi-rô, cái vị mằn mặn beo béo của khúc bánh mì thịt trét tương. Còn mấy cô gái làm sao quên được chiéc bánh giá có con tép mòng nhỏ xíu dòn tan mà khi ăn thường hay hít hà khi ăn nhằm ớt, hoặc mút khúc cà rem cây có một chút xíu mít thơm thơm...

Bao giờ khi đi học chị cũng dúi cho 1 xu rủng rỉnh đến cổng trường sớm một chút, đảo quanh các chú bánh mì thịt, bánh mì cá mòi, bánh mì ba-tê, mấy anh cà-rem cây, cà-rem cục, mấy chị bán đồ chua – cái nầy mấy cô gái khoái lắm – dưa me, mứt chùm ruột, ổi, mận...mấy bà bán xôi bánh phồng, chuối trộn dừa,chuối nướng, đậu phộng rang, đậu phộng nấu, khoai mì, khoai lang...Những khuôn mặt nầy, những món ăn học trò nầy ...sao mà cứ lởn vởn trong tôi mãi cho đến lúc tuổi đã về chiều.

                     THẦY CÔ TÔI

     Ngày 15 tháng 9 năm 1950, ngày tựu trường cũng là ngày đầu tiên tôi đi học, chị tôi dẫn tôi đến trường. Một tay nắm tay chị, một tay ôm một cặp đệm mới mua,trong cặp chỉ có một cái bảng giấy cứng sơn xanh và một nắm xôi bánh phồng.

     Đôi mắt tôi mở to nhìn vào sân trường rộng thênh thang chật kín học sinh, trai có gái có hầu hết lớn tuổi hơn tôi, chỉ loáng thoáng một số ít trang lứa với tôinép mình bên cha hay mẹ cũng ngơ ngác như tôi và chắc chắn sẽ là đồng môn đồng lớp với tôi sau nầy.

     Tôi vào lớp Đồng ấu 2 được thầy tôi, thầy Phùng Nhơn, sắp cho tôi ngồi đầu bàn ở ngay hàng đầu, kế Chung Phước Thành (Thành là bạn học đầu tiên của tôi và hai đứa thân nhau suốt 6 năm tiểu học ở Trường Lá). Tôi như con gà con vừa tách mẹ đưa mắt ngơ ngác nhìn gian phòng học lạ hoắc, những dãy bàn học trò, bàn thầy, bảng đen...tất cả đều lạ lùng với tôi nhất là những thằng bạn của tôi sao tôi thấy chúng xa lạ với tôi quá. Bỗng nhiên tôi muốn khóc. Và tôi đã khóc tuy không thành tiếng nhưng nước mắt chan hoà. Thầy tôi đến bên tôi, vỗ đầu tôi, nhỏ nhẹ bảo tôi:

     - Lớn rồi phải đi học. Vô trường thầy dạy cho con học, có các bạn để con làm quen chơi đùa. Đâu có gì phải khóc phải hông?

     Tôi ngước lên nhìn thầy, thầy cười với tôi. Nụ cười hiền hậu của thầy chưa chi đã khiến cho tôi an tâm...bước vào cuộc đời học trò.

     Những buổi học sáng chiều đầu tiên của tôi trôi chảy như dòng đời có hoa có bướm cho đến khi Tết đến tôi đã nắn nót được những dòng chữ đầu tiên, đọc bập bẹ những câu thơ trong truyện Con Tấm Con Cám. Người khen tôi đầu tiên là thầy tôi, thầy Nhơn, khi thầy trao cho tôi giấy ban khen và nói: “Con học chăm chỉ. Thầy khen con”. Lời khen đơn giản của ông “Thầy lớp chót” nầy mãi mãi nằm trong tâm tư tôi suốt cả đời.

     Tuổi học trò vô tư qua nhanh nhưng hình ảnh ngôi trường đầu đời cùng với thầy xưa bạn cũ ghi lại nhiều dấu ấn trong ký ức không hề phai trong suốt cuộc đời của một con người. Thầy Nhơn dạy lớp Đồng ấu, có lúc gọi là lớp Năm, nói chung là lớp Chót (bây giờ là lớp Một). Cái lớp Chót nầy khai mào trong tôi biết bao điều đáng nhớ. Sau những giờ học, thầy tôi thường dành năm mười phút dể dạy chúng tôi hát những bài hát trẻ thơ: Tung trời xanh, én nô đùa reo mừng....những bài hát yêu đời: Đời ta bao tươi vui như hoa hồng thắm..., những bài hát khích động chí khí thanh niên: Nầy thanh niên ơi đứng lên đáp lời sông núi.... hay hùng ca sử Việt: Đây Bạch Đằng Giang sông hùng dũng của nòi giống, giống Tiên Rồng…, những bài hát cổ xuý tính hợp quần: Tiếng chim vang lừng gọi đàn trong sương sớm...

     Thầy tôi ngoài nhiệm vụ dạy một lớp còn được trường phân công phụ trách văn nghệ của trường. Trong các dịp lễ như ngày lễ Hai Bà Trưng, tết Trung Thu, tết Nguyên Đán và nhứt là lễ Phát thưởng cuối năm, thầy tổ chức văn nghệ có nhiều tiết mục cho toàn trường xem. Nhiều tuần trước đó thầy thành lập đội văn nghệ nhí - học sinh của trường - tập dượt thường xuyên… Tuy chỉ là “cây nhà lá vườn” nhưng những buổi trình diễn nầy rất được khán giả (gồm quan khách, các phụ huynh, các thầy cô và các học sinh của trường) khen ngợi.

  Hình 2

    Thầy hiệu trưởng Nguyễn Văn Đạt (trái), thầy Phùng Nhơn (mặt)
      và ban văn nghệ nhí Trường Lá, đầu thập niên 1950.
     Hình 2 chụp cách nay khoảng 60 năm trước văn phòng Trường Lá nhân dịp trình diễn văn nghệ mừng tết Nguyên Đán.
 Trong số 14 học sinh hiện diện trong hình tôi chỉ “nhận diện” được, từ trái qua phải:
     Hàng ngồi:
     - thứ hai: Huỳnh Thị Ngọc Hường (California, USA)
     - thứ ba: Chung Thị Bích Thủy (Massachusets, USA)
     Hàng đứng:
     - thứ hai: Chung Vĩnh Phước (California, USA)
   - thứ ba: Võ Thành Dũng (Paris, Pháp)
     - thứ năm: Chung Phước Thành (California, USA)

     Hai chị em Chung Thị Bích Thủy và Chung Phúc Thành là con của thầy Chung Tốt,
dạy Anh văn trừờng trung học Nguyễn Đình Chiểu, thập niên 1940-1950.

     Cô Huỳnh Thị Ngọc Hường học trung học ở Nguyễn Đình Chiểu và Lê Ngọc Hân, sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn, cô dạy sử địa trường Nguyễn Đình Chiểu và Lê Ngọc Hân sau đó.

     Quí thầy khác trong trường dù tôi có học hay không tôi vẫn coi là thầy, tôi vẫn giữ một lòng kính yêu như vậy. Tôi không quên thầy Đoàn Văn Viễn, sau là Hiệu trưởng của “Trường Lá” nầy khi “nó” được phục hồi lại chính danh là “Trường Nam Tiểu học Mỹ Tho”, tức là thân phụ của Đoàn Thị Phụng Nga,Phụng Mỹ, Phụng Lan...sau nầy đều là những cô giáo. Thầy Viễn dạy lớp Nhứt, cũng như các thầy khác đến trường với bộ đồ veste màu xám, cà vạt đen, đến cổng trường là Thầy xuống xe máy (xe đạp), một chiếc xe hiệu Alcyon, sơn đen, thắng đôi (double frein), thầy dẫn xe vào sân trường mắt nhìn thẳng dường như không nhìn hai bên nhưng vô phước cho cậu học trò nào đi ngang Thầy mà không cúi chào vì Thầy sẽ giảng mo-rang ngay: Đến thầy biểu: Sao đi ngang thầy mà không thưa? Thưa thầy đi. Cậu học trò nhỏ khoanh tay: Thưa thầy! Thầy trò cùng thấy vui vì đó là thiên chức của thầy và vì đó cũng là bổn phậncủa trò.

     Thầy Lê Văn Quạ nổi danh về điếu thuốc vấn Gò Vấp bằng ngón tay luôn luôn phì phà khói thuốc và cái nổi danh thứ hai là học trò không thuộc bài, quậy phá thầy không đánh vì theo qui định giáo khoa “hình phạt nhục thể” bị cấm đoán,thầy là nhà giáo thầy phải tuân hành nên thầy chỉ véo thôi mà thầy véo những nơi nhạy cảm nhất là bắp vế và nách non. Học trò nhờ những cái véo để đời nầy để rồi nhớ thầy nhiều.

     Thầy Nguyễn Văn Nghị vẫn với chiếc xe máy cà khổ và lúc bấy giờ chỉ còn thầy là người duy nhất mặc áo dài xuyến đen đi dạy. Thầy chạy xe đến trường cẩn thận xuống xe, đưa tay ra sau gở cây kẹp kẹp vạt áo dài vắt ngang lưng để khi chạy, vạt áo không vướng vào căm xe, xong thầy lại cúi xuống đưa tay gở cây kẹp thứ hai kẹp ống quần bên chân mặt vì sợ ống quần quấn vào dây sên. Hai động tác nầy thầy làm một cách nhuần nhuyễn gọn ghẽ, xong thầy ung dung dẫn xe vào trường. Tan học trưa hay tan học chiều, đưa học trò ra cổng xong, thầy trở vào nơi để xe, lấy xe ra và hai động tác trước khi vào trường bây giờ cũng vậy nhưng ngược lại là kẹp ống quần xong, gát chân lên xe và đưa tay vòng ra sau kẹp vạt áo dài, nghiêng mắt nhìn kỹ xem đã đủ an toàn chưa thầy mới nhấn bê-đan cho xe chạy. Ôi! Thầy tôi! Và ngày ngày hai lượt đều như vậy.

     Tôi có đọc một bài do một cựu học sinh Trường Lá kể là khi lớn lên, người học trò nầy cưới vợ và lễ cưới tất nhiên có đôi đèn trên bàn thờ gia tiên. Chính thầy Nguyễn Văn Nghị đã se đôi đèn nầy bằng sáp ong với cặp Long Phụng Hoà Minh rất đẹp. Vi ngoài là nhà giáo, Thầy còn có cái nghề tay trái nầy mà ai ở Mỹ Tho cũng biết cũng khen. Và cặp vợ chồng nào khi đám cưới mà trên bàn thờ gia tiên có đôi bạch lạp do Thầy se thì nhất định sẽ có con đàn cháu đống, bách niên giai lão, trăm năm hạnh phúc.

     Thầy Nguyễn Văn Ngưu nhỏ người trông ốm yếu, lưng còng...nhà ở đường Đỗ Hữu Vị (Nguyễn Huệ bây giờ) khá xa trường, không như các thầy cô khác dùng xe máy hay xe kéo để đi dạy, còn thầy chỉ đi bộ không phải vì thầy thích vận động mà vì thầy... không có tiền mua nổi một chiếc xe máy. Thầy chẳng những không có tiền mà còn mắc nợ triền miên vì thầy....mê cờ bạc. Tôi nói điều nầy vẫn với một lòng kính yêu thầy như thuở nào. Trên đây tôi dùng từ “mê cờ bạc” để biết rằng con người có những cái đam mê nhiều khi vô lối như vậy nhưng thực sự trên phương diện đạo đức xã hội, họ không có tội gì cả. Không phải thầy tham lam cờ gian bạc lận để mong móc túi người ta mà chính cái “máu đổ bác”nó ở trong thầy như một con ma ám ảnh thầy. Thầy như bị thúc đẩy phải đánh bài, bài nào cũng được tứ sắc, chập ỏ, bài cào, cách tê, xập xám, hốt me, tài xỉu...mặc dù thầy biết không bao giờ thầy “ăn” chỉ có thua và thua nhưng dù thua thầy vẫn xem đó là một đam mê trên cả sự sống.

     Tôi xin kể: Năm 1955 thầy Ngưu của tôi đổi xuống trường Chợ Gạo, giờ ra chơi chỉ có 15 phút, thầy vẫn tranh thủ chạy xuống chợ gần đó...đánh mấy ván bài cào. Khi trống vào học, thầy chạy về trường dạy tiếp...Năm 1957, một buổi chiều tôi ra ga xe lửa Sài Gòn mua vé về Mỹ Tho gặp thầy. Thầy bảo: Có tiền mua vé cho thầy về, thầy hết tiền rồi. Tôi: Dạ. Tôi mua vé xong đưa cho thầy kèm theo 1 đồng bạc và thưa: Thầy dùng uống nước. Thầy thấy vậy nói tiếp: Nè có tiền cho thầy mượn 5 đồng. Tôi hỏi: Chi vậy thầy? Thầy nói: Để thầy trở lại sòng “tài xỉu” gở...!!! 5 đồng đó không bao giờ thầy trả nổi cho tôi được nhưng mỗi lần thầy gặp tôi thầy đều nhắc: Thầy còn thiếu em 5 đồng...

     Trời xui khiến khi thầy đã già tôi đã lớn tuổi...thầy trò lại có nhà ở gần nhau. Có những đêm, thầy kêu cửa tôi và bảo: Cho thầy ngủ nhờ, đi đánh bài về khuya cô hổng cho vô nhà!

     1980 cuộc đời thay đổi, bài bạc không còn, tôi được biết thầy về quê Cô một vùng đồng khô cỏ cháy, xã Tân Hòa Thành. Ít lâu sau một hôm tôi bỗng gặp thầy quá già yếu, đi bộ giữa trời trưa nắng gắt trên đường Ngô Quyền. Tôi nhìn thầy già nua vì thời gian và tiều tuỵ vì thiếu thốn nhưng thầy vẫn mặc áo bỏ vào quần đúng theo tác phong một thầy giáo, mang đôi xang-đan dẹp lép bước những bước chân nặng nề, hướng về bến xe đò cách hai cây số. Tôi hỏi: Thầy đi đâu vậy? Thầy bảo: Thầy về quê lâu rồi, bửa nay nhớ Mỹ Tho xuống chơi bây giờ đi lên bến xe đặng về nhà.

     Tôi nhìn cái nắng tháng tư, tôi nhìn cái nón vải rách te tua, tôi nhìn đôi xăng-đan đứt quai, tôi nhìn cái giỏ xách bằng đệm trống trơn không có đến một ổ bánh mì chỉ có một.... ốp nhang nhỏ xíu. Và tôi biết rằng trong túi tôi lúc nầy cũng trống trơn như cái giỏ xách của thầy, nên tôi chỉ còn biết nhìn theo thầy mà mắt tôi rưng rưng. Bóng thầy mờ dần trong ánh nắng hè đúng ngọ chói chang. Đó cũng là lần chót tôi gặp lại thầy tôi.

     Cô Lê Thị Hai, gốc người Gò Công phu nhân của thầy Võ Văn Liễu giáo sư trường Nguyễn Đình Chiểu, chị của cô giáo Lê Thị Tép hiện định cư tại Paris,bạn sư phạm và cũng là đồng nghiệp của tôi. Một cô giáo mẫu mực một nhà sư phạm gương mẫu, trên môi luôn có một nụ cười hiền hậu bao dung, mỗi ngày đi dạy bằng xe kéo. Về sau cô là Hiệu trưởng trường Nữ Tiểu học Mỹ Tho. Tôi không có học cô nhưng tôi vẫn xem cô như là một người thầy đáng kính.

Những cô khác cũng vậy đều là những bậc hiền sư chỉ biết lấy tâm của mình mà dạy đàn học trò nhỏ dại như cô Nguyễn Thị Huỳnh, thân mẫu của anh Lâm Trí Chánh, cô Nguyễn Thị Lãnh thân mẫu của cô Lê Hồng Sương, cô Ngô Thị Hường thân mẫu của Bác sĩ Phạm Hà Thanh, cô Hồ Thị Lợi, thân mẫu của cô Lệ Hoa, Cô Lê Thị Huê phu nhân của Thầy Đoàn Văn Viễn, thân mẫu của tứ giai nhân Đoàn Thị Phụng Nga, Phụng Loan, Phụng Mỹ, Phụng Lan, Cô Phạm Thị Sáu thân mẫu của Võ Minh Hằng..., thầy Trương Văn Hợi thân phụ của cô Trương Thị Mai, Trương Thị Ánh....

     Tôi học từ lớp Đồng ấu đến lớp Nhất qua các thầy và cùng bè bạn đã để lại trong tôi không ít kỷ niệm vui buồn. Vị thầy mà tôi muốn nói trước tiên là thầy Hiệu trưởng Nguyễn Văn Đạt. Trước thầy Đạt, Trường Lá nầy có một vị Hiệu trưởng khi về hưu Thầy Đạt thay thế. Đó là Thầy Lê Văn Dều, một cây cổ thụ trong những cây cổ thụ của “Nền học chánh tỉnh Mỹ Tho” xưa (Enseignement primaire provincial de Mỹ Tho) cùng với các cây cổ thụ khác như Thầy Phạm Văn Khịa, Thầy Ngô Quốc Thế, Thầy Dương Văn Hoành, Thầy Trương Văn Cơ, Thầy Lê Văn Hội, Thầy Phạm Văn Lắm, Thầy Quách Văn Trương, Thầy Lê Văn Trí, Thầy Lê Văn Vững, Thầy Huỳnh Văn Đồ, Thầy Ngô Văn Tiếng, Thầy Bùi Văn Huy, Thầy Bùi Văn Mùi, Thầy Nguyễn Văn Đạt (trùng tên với Thầy Đạt, Hiệu trưởng), Thầy Đinh Văn Của, Thầy Võ Văn Đây, Thầy Ngô Thới Lai v.v...Nhưng không thể thiếu hai giáo sư Dương Văn Cấp (thân phụ của Kỷ sư Dương Mộng Ảo và Kỷ sư Dương Kích Nhưỡng và giáo sư Phạm Công Bình (thân phụ của Kiến trúc sư Phạm Công Thành) đã từng đứng đầu ngành giáo dục Tiểu học của Mỹ Tho.

     Thật sự lúc vào học lớp chót cho đến khi tối nghiệp bằng Tiểu học để thi đậu vào lớp đệ nhất niên (1ère année) trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu, tôi chỉ loáng thoáng biết thầy Hiệu trường lờ mờ qua các lễ chào cờ, phát phần thưởng cuối năm thôi vì tuổi đời tôi còn quá nhỏ. Nhưng vừa đây vào tháng 2 năm 2012 tôi được tin Thầy Nguyễn Văn Đạt qua đời ở tuổi 96 tại California và được di quan về hỏa thiêu ở Sài Gòn. Chừng đó sống dậy trong tôi Thầy Nguyễn Văn Đạt, một thầy Hiệu trưởng đúng dáng “nhà giàu đẹp trai học giỏi” mà mãi đến nay bao thế hệ học trò của thầy, nam như nữ, có học hay không học với thầy đều vẫn giữ trong ký ức mình một bậc thầy đáng tôn kính và cũng có một phần ngưỡng mộ tư cách “hào hoa phong nhã” của một ông thầy “tài sắc vẹn toàn”, một ông thầy nói tiếng Tây giỏi hơn Tây!

                    NHÌN LẠI NỀN GIÁO DỤC TIỂU HỌC XƯA

Nhớ lại trường, nhớ lại thầy, nhớ lại bạn thì cũng nên nhớ lại những điều học hỏi đầu đời mà một đứa học trò tiểu học đã thụ huấn qua chương trình giáo dục thời bấy giờ.

Từ tháng 9 năm 1945 trở về trước, chương trình giáo dục bậc tiểu học, riêng ở miền Nam Việt Nam (Nam kỳ một thuộc địa của Pháp – Cochinchine) gần như là chương trình Pháp. Cho nên khi còn học ở lớp Enfantin (Lớp 1) học sinh đã học tiếng Pháp. Những lịnh của thầy cũng dùng tiếng Pháp. Thí dụ: entrez!,sortez!, asseyez-vous, répétez, levez vous, phạt cũng tiếng Pháp: à genoux...thậm chí chửi cũng bằng tiếng Pháp: idiot, imbécile! Hát cũng những bài Pháp: C’est à Capri, Malbrough s’en va-t-en guerre....Khỏi phải nói bài quốc ca Marseillaise của Pháp: Allons enfants de la patrie... Cho điểm thì zéro, 5 points, 9 points...

Lên lớp Élémentaire (lớp 3) đã có viết dictée hay orthographe, làm toán, học bài tiếng Pháp, những bài Việt ngữ xem như sinh ngữ như Tập đọc, Học thuộc lòng... Cho nên mãi tới bây giờ cách nay 80 năm ở lớp Ba tôi đã học và còn thuộc lòng bài Người thợ rèn (Le forgeron): Dès l’aube la forge s’allume. Le fer rougit sur l’enclume.....Mãi tới bây giờ tôi không biết đó có phải là chương trình « nhồi sọ » của thực dân Pháp hay không?

Học hết lớp Sơ đẳng học sinh phải thi bằng Cetificat d’études primaires élémentaires (Bằng Sơ đẳng Tiểu học gọi tắt là Sơ Tiểu hay CEPE) để lên học bậc Tiểu học . Bậc Tiểu học gồm có lớp Nhì (có lúc có 2 lớp Nhì: Lớp Nhì Một Năm và Lớp Nhì Hai Năm, hay là Cours Moyen 1ère và 2ème année hay gọi tắt là Moyen 1, Moyen 2) sau đó lên lớp Supérỉeur hay lớp Nhất (Lớp 5) thi chương trình gần như hoàn toàn Pháp ngoài mấy bài Trduction hay Thème (Dịch từ Pháp ra Việt hay ngược lại).

Học xong lớp Nhất học sinh thi bằng Certificat Primaires Complémentaires –tên bằng cấp nầy thay đổi luôn nhưng tạm gọi như thế – có cả thi oral tức là vấn đáp hay là Văn bằng Tiểu học Bô túc. Có bằng nầy học sinh phải trải qua cuộc thi tuyển gay go để được vào trường Trung học.

MỘT NỀN GIÁO DỤC DÂN TỘC

Ở trên tôi xin phép phác hoạ lại nền giáo dục Tiểu học Việt Nam thời Pháp thuộc để chúng ta nắm bắt được sự chuyển mình của nền giáo dục của chúng ta sau thời kỳ đó để hình thành được một nền giáo dục quốc gia, dân tộc từ 1945.

Và người đặt nền móng đầu tiên cho nền giáo dục nầy chính là Thạc sĩ Toán học đầu tiên của Việt Nam (1936) là Hoàng Xuân Hãn (1908-1996), một học giả thông kim bác cổ : nhà khoa học (xuất bản cuốn Danh từ Khoa học đầu tiên của Việt Nam năm 1942), nhà văn hóa, nhà sử học ... Giáo sư đã để lại cho hậu thế nhiều công trình giá trị. Với tư cách là Bộ trưởng Giáo dục trong nội các Trần Trọng Kim (1945), Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã thiết lập và ban hành chương trình giáo dục bằng chữ Quốc ngữ ở các trường học, áp dụng việc học và thi Tú Tài bằng tiếng Việt, dùng tiếng Việt trong những công văn chính thức.

     Thời kỳ nầy chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn 1946-1955 và giai đoạn 1956 trở về sau.

     Giai đoạn 1946-1955 (thời kỳ có mặt của Trường Lá) : Năm 1946 người Pháp trở lại Việt Nam nhưng đã mất đi vai trò “chủ nhân ông” trong mọi lĩnh vực,hơn nữa trong thời gian Pháp mất chính quyền ở Việt Nam, ta đã hình thành được một nền giáo dục dân tộc như trên dã trình bày, nên giờ đây chương trình giáo dục cũ của Pháp cũng dần dần được thay thế.

     Trường Lá cũng như các trường Tiểu học khác từ đây đã áp dụng một chương trình giáo dục mới tuy nhiên chưa hoàn toàn ly khai với quá khứ. Ở cấp Sơ đẳng hoàn toàn không có tiếng Pháp. Lên cấp Tiểu học, tiếng Pháp còn nhưng chỉ là một môn phụ như một sinh ngữ. Cuộc thi cấp Sơ đẳng đã bãi bỏ, chỉ còn cấp Tiểu học. Trong các lớp không còn tiếng Pháp trong sinh hoạt, trong giảng dạy,nói chung là ta đã độc lập trong giáo dục.

     Giai đoạn 1956 trở về sau : người Pháp đã vĩnh viễn rời khỏi Việt Nam, tiếng Pháp đã hoàn toàn mất hẳn ở bậc tiểu học, ta đã hoàn toàn chia tay với quá khứ.

     Thi xong cấp Tiểu học, trên toàn quốc học sinh phải qua một kỳ thi tuyển vào trường Trung học. Ở Mỹ Tho học sinh Trường Lá phải đương đầu với cả ngàn thí sinh thi vào Trung học Nguyễn Đình Chiểu, và nơi đây chỉ thu nhận khoảng hai, ba trăm mà thôi....Các thí sinh không phải chỉ là thí sinh của toàn tỉnh Mỹ Tho mà còn cả của các tỉnh miền Tây trong một cuộc đọ sức « mất còn ». Tỷ số học sinh lớp Nhứt đậu vào trung học Nguyễn Đình Chiểu rất thấp. Cho nên để « vớt » số học sinh thi rớt vào Trung học có thể tiếp tục thi năm sau nên có tổ chức lớp Tiếp liên nghĩa là lớp dành cho học sinh nầy được cơ hội học thêm một năm ở Trường Tiểu học để năm sau thi trở lại, gọi là cours des certifíés. Với điều kiện là học sinh nầy còn trong hạn tuổi qui định. Vì chỉ dành cho các học sinh đã học một năm ở lớp Nhứt cho nên chương trình lớp Tiếp liên cao hơn chương trình lớp Nhứt, học sinh « vững vàng » hơn, tỷ số học sinh Trường Lá đậu vào trường Nguyễn Đình Chiểu rất cao. Dạng lớp nầy chỉ có từ khoảng năm 1940 đến khoảng 1956 mà thôi.

              TÔI HỌC THẾ NÀO NƠI ĐÂY

     Một nền giáo dục dân tộc đã manh nha cùng với một thời khoá biểu hàng tuần được soạn thảo một cách công phu và khoa học đã giúp cho một đứa bé như tôi có điều kiện dễ dàng để tiếp thu những điều thầy giảng dạy. Chẳng hạn hàng tuần chỉ có năm ngày học, nghỉ thứ năm và chủ nhật, ngày học hai buổi. Những thời điểm quan trọng nhất trong ngày dành cho các môn về đạo đức và giáo dục.

     Thí dụ: giờ đầu 7-8 giờ, thứ Hai môn Đức Dục hay Luân Lý, thứ Ba môn Công dân Giáo dục, Thứ Sáu môn Vệ sinh, thứ Bảy môn Lễ phép. Buổi sáng dành cho các môn quan trọng như Toán, Chính tả, Làm văn. Buổi chiều dành cho các môn dễ hơn như Khoa học thường thức, Thủ công, Nữ công, Vẽ...

     Tôi không thể bỏ qua bài Tập viết (Écriture) một môn mà bây giờ không một mảy may quan trọng nhưng ngày tôi đi học ngay từ lớp vở lòng thầy cô đã chịu khó nắn tay tôi để tôi có được một nét chữ không phải đẹp mà đúng cách đúng phép vì thầy bảo: “Xét chữ viết của con là người ta biết tư cách của con”. Ôi! Một lời dạy bảo vàng ngọc. Cho nên đến lớp Nhất thời khoá biểu vẫn còn môn Tập viết.

     Như vậy đó, một thời khoá biểu được lập có chủ đích thích nghi một cách khoa học với tâm sinh lý học sinh, thêm vào một chương trình giáo dục phân bổ một cách cân bằng cho mỗi tam cá nguyệt, cho mỗi cấp lớp tuần tự nhi tiến...cộng thêm một đội ngũ thầy cô đầy đủ chức năng và nhất là lương tâm chức nghiệp...tôi đã dễ dàng qua cấp Tiểu học và thẳng tiến vào Trung học.

              CON ĐƯỜNG HỌC VẤN CỦA TÔI

     Con đường học vấn của tôi trải dài 13 năm (6 năm Trường Lá, 7 năm Trường Nguyễn Đình Chiểu), những kỷ niệm trong suốt 15 năm tôi ở Mỹ Tho - từ 3 đến 18 tuổi - đều là những kỷ niệm của tuổi học trò, tuổi hồn nhiên nhất, tuổi đẹp nhất của kiếp con người. Trong suốt 6 năm học Trường Lá tôi học chung với rất nhiều đồng môn. Những đứa bạn nầy lại “dắt díu” nhau vào trường trung học Nguyễn Đình Chiểu thành ra rất thân nhau. Tình thân đó vẫn còn tồn tại sau hơn nửa thế kỷ cho đến hôm nay dù rằng khi vào đời mỗi đứa đã chọn một con đường riêng và đôi khi chí hướng hoàn toàn ngược nhau. Mỗi khi họp mặt (tết Nguyên Đán, đám cưới, đám tang, hay đơn giản khi có một đứa từ phương xa trở về,…) thì chỉ có “mầy-tao” như thưở còn đi học là cách xưng hô duy nhứt,dù rằng vị trí xã hội nhiều chênh lệch, có đứa nay vẫn còn phải đi bán vé số để kiếm sống và nhiều đứa đã tỏa sáng trong nghiệp vụ của mình.

     Bạn thân nhứt của tôi là Đinh Văn Hải (con thầy Đinh Văn Của), đứa bạn duy nhứt học chung trong khoảng đường thật dài: ở Trường Lá từ khi tôi lên 5, ở trung học Nguyễn Đình Chiểu cho đến xong tú tài, ở Khoa học Sài Gòn cho đến xong cử nhân lý-hóa. Bạn bè thân hồi tiểu-trung học của tôi vô số, nhiều đứa nay đã vĩnh viễn ra đi, có đứa ở góc biển, có đứa ở tận chân trời xa thẳm, tuy nhiên vẫn biết tin tức của nhau, vẫn thường xuyên giữ liên lạc. Ngoài Đinh Văn Hải hiện ở Sài Gòn, vẫn còn một số bạn ở trong nước:

     - Mỹ Tho: Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Tôn Quyền, Lê Thanh Khiết, Phạm

Công Thành, Lý Thành Phương, Đỗ Sanh Tích,…

     - Tân An: Lâm Hữu Nghĩa, Đỗ Tấn Tri.

     - Sài Gòn: Nguyễn Văn Linh, Lê Quang Ninh, Nguyễn Chấn Hùng, Huỳnh Kế Nghiệp, Lâm Hữu Thiện, Trần Mỹ Quan, Huỳnh Kim Quang,…

Đó là chưa kể đến những bạn hiện định cư ở nước ngoài cũng như những bạn học tiểu học ở các trường khác trong tỉnh Mỹ Tho và chỉ học chung nhau thời trung học Nguyễn Đình Chiểu.


Cô Tạ thị Rớt Giữa, Thầy Tân văn Công trái chụp hình kỷ niệm với
  Tuý Vân (Mỹ, dân Chùa Chà) bên trái

 

                      ĐỒNG PHỤC

     Nói đến đồng phục học sinh nơi Trường Lá phải trở về thời điểm ngôi Trường Tỉnh ( École provinciale – trường chính của Trường Lá) được xây cất vào năm 1925 tại đại lộ Hùng Vương (boulevard Bourdais) thì trường mới có đồng phục cho học sinh. Trai: sơ mi trắng ngắn tay, quần ngắn (quần xà lỏn) đen, chân

không, tóc hớt ngắn hay hớt job tức là sát da đầu. Gái: áo bà ba trắng, quần dài đen, chân không, tóc cắt bôm-bê.

     Mãi đến những năm kinh tế khủng hoảng vào thập niên 1930 và nhất là trong thời kỳ thế chiến thứ hai, quân đội Nhật vào Việt Nam, thì đồng phục bị lơ là vì kinh tế khó khăn, vải sồ trở nên khan hiếm, Mãi đến năm 1946, mặc dù chiến tranh chấm dứt nhưng đời sống người dân còn khó khăn nên việc đòi hỏi học sinh mặc đồng phục vẫn chưa thi hành.

     Cho đến đầu thập niên 1950 trở về sau Trường Lá đã trở lại cho học sinh mặc đồng phục và vẫn lối đống phục cũ nhưng có phần tươm tất hơn (Hình 1). Học trò có thể đi dép cao su hay dép da. Học trò trai ở lớp Nhất, Nhì để tóc ma-ninh, chải bảy ba, thoa bi-dăng-tin láng ngót. Các cô gái cũng vậy tóc rẻ đường ngôi chải tăng-gô hay chữ S rất duyên dáng.

     Như vậy đó, Mỹ Tho trai tài gái sắc. Biết bao nhiêu cựu học sinh của cái Trường Lá khiêm nhường nầy đã trở thành những đấng tu mi nam tử, bao nhiêu cô gái học sinh của cái Trường Cầu Bắc nầy trở thành hoa khôi, hoa hậu của mảnh đất Mỹ Tho ngàn năm văn vật đã xuất thân từ ngôi trường, một ngôi trường đã đi vào lịch sử ít nữa là đối với chúng tôi.

                    TRÒ CHƠI

     Thuở chúng tôi học nơi Trường Lá, chúng tôi còn chân quê lắm. Trước giờ học chúng tôi đi sớm một chút để có thời gian hay trong những giờ ra chơi, chúng tôi tập họp theo từng nhóm từng cụm...mà chúng tôi quen chơi chung.

     Trò chơi của chúng tôi rất đa dạng và nói theo giọng người lớn một chút mang tính dân tộc rõ nét đồng thời vừa có tính giáo dục, trí dục cũng như thể dục. Trong tập đệm của chúng tôi nếu là con trai không thể không có một ná thung, một cây trỏng, một bộ sưu tầm bao thuốc lá.... Cón trong túi áo thì vài ba cục đạn, có thể là đạn đất, đạn chai...có bán trong các tiệm hàng xén hoặc những đồng xu để thẩy lồ hay thẩy lỗ. Đồng xu thường là xu bảng có hình “bà đầm xoè” bằng thau, bề khá dày, nặng ...để khi thẩy vào lỗ chính xác hơn hay “bạt” đồng xu của đối thủ cũng có lực hơn. Ngoài ra còn có những đồng xu sắt hay đồng, chúng tôi đến Hãng Xáng hay trường Bá Nghệ còn gọi là trường Học nghề xin hay mua những đồng xu sắt hay đồng bề kính lối 0.25 cm và bề dày cở 0,2 cm do ở đây họ tiện ra, đem về chùi trên cát cho sáng bóng. Xu sắt hay đồng mà đánh đáo, thẩy lỗ thì hết xẩy.

     Còn nữa, trong cái cặp đệm lên nước bẩn thỉu vì vết mực loang lổ, cũ mèm vì thời gian ngoài sách vở viết thước và ngoài các thứ kể trên còn là một dụng cụ chứa đựng đủ thứ đồ chơi có thể có như: dây thun, bao bì thuốc lá, nút chai nước ngọt, banh ba da....

     Con gái cũng không thua gì con trai nhưng là đào thơ liễu yếu nên những trò chơi cũng kém phần dũng mãnh hơn nhưng khéo léo hơn đám con trai nhiều. Chẳng hạn xét trong cặp các cô ngoài sách vở, ngoài cóc ổi mận chùm ruột...còn có một bó đủa để đánh đủa. Đủa tiếng gọi như vậy nhưng thực sự các cô có óc thực dụng hơn ra bờ sông cắt một mớ cọng lát hay u du vừa nhẹ nhàng vừa tiện lợi, chơi lâu bỏ, cắt cái khác. Còn có một xâu dây thun nối lại thành một đoạn dài để nhảy dây, một túi đựng hột me cái nầy mấy cô giỏi lắm để đánh búng...

Có những trò chơi khác không cần dụng cụ như bỏ khăn, trốn kiếm, bịt mắt bắt dê, nhảy nhà (nhảy lò cò) ...

Thùng thùng...thùng...Giờ chơi, chúng tôi ào ra sân trường như bầy chim sổ lồng. Chúng tôi tụ năm tụ ba nhóm ở góc nầy nhóm ở góc kia. Có một nhóm đông hơn chiếm cả một khu khá rộng để đá banh. Cũng chia ra giữ gôn, a-de, avang- xăng, cốt mặt, cốt trái...Thế là lâm trận cũng lừa cũng đảo, cũng chèn cũng ép, cũng sút đìa-rét cũng bắt vô-lê, cũng phạt pê-nal-ty...Nhưng có điều không cần ạt bit, cả hai đội tự nguyện chấp nhận điều lệ một cách tự nhiên. Chúng tôi đã biết “fair play” từ xưa rồi!

Cầu môn đánh dấu bằng hai chiếc áo sơ-mi còn banh thì là trái banh ba da. Banh ba da ngày nay không còn ai biết là gì. Banh ba da tức là banh đánh quần vợt (banh tennis) đã xài rồi. Chúng tôi xin để dùng làm banh đá. Nhưng tại sao gọi là ba da. Số là banh nầy mang nhãn hiệu Michelin, bây giờ vẫn còn, cấu trúc của nó gồm 3 lớp, 3 da mà. Lớp trong bằng cao su màu trắng lớp giữa cũng bằng cao su nhưng màu đen, bọc một lớp ngoài bằng nỉ đủ màu. Trái banh cũ về tay chúng tôi à không về chân chúng tôi...đá không bao lâu, lớp nỉ bên ngoài tróc hết cho thấy lớp cao su đen ở trong. Chúng tôi vẫn đá, đá cho đến khi lớp cao su đen nầy mòn và chưa kịp thấy lớp cao su trắng bên trong là banh đã bể rồi.

Không sao! Xin banh khác. Trong những cầu thủ tí hon nầy của Trường Lá chúng tôi, sau nầy có một số trở thành tuyển thủ lừng danh của đội bóng đá Mỹ Tho Sport, một đội bóng trong 7 đội bóng ngoại hạng của Miền Nam trong các thập niên 50, 60, 70 của thế kỷ trước như Mỹ 2, Rạng, Bảy Két...

Cũng trong thời gian ngắn ngủi nầy chúng tôi, bọn con trai, tập họp một nhóm từ ba đến năm chơi thẩy lổ còn gọi là thẩy lỗ. Trò chơi khá đơn giản. Trước hết phải có một lỗ mội khoét xuống đất sâu cở cái chung trà nhỏ vừa đủ cho vài ba đồng xu lọt vào. Cách lỗ vài thước là một lằn mức để từ đó vận động viên đứng thẩy xu vào lỗ. Luật chơi khá chặt chẻ. Tất cả vận động viên thoả thuận chầu một số xu tuỳ ý chẳng hạn 4 xu cho mỗi người. Ba người chơi vị chi là 12 xu. Ai đi trước đi sau phải qua một cuộc thi. Luật thi là lần lượt từng người cầm đồng xu cái của mình, không nằm trong trong số xu chung đậu, đồng xu nầy có thể là xu bảng, có thể là xu đồng hay xu sắt như nói ở phần trên và thẩy vào lỗ mội.

     Anh nào có đồng xu thẩy được vào lỗ là đi đầu, anh nào có đồng xu gần lỗ nhất đi thứ nhì, và anh nào có đồng xa nhất là đỉ sau cùng. Anh đi đầu cầm một vốc 12 đồng xu thẩy vào lỗ, bao nhiêu xu vào lỗ là anh

được quyền lấy về. Số xu còn lại vất vảy quanh lỗ thì được anh chưa đi chỉ định cho anh đang chơi ném xu cái của mình cho trúng. Nếu trúng là anh nầy thắng tất cả. Bày lại cuộc chơi sau. Nhưng cũng khó, vì anh chỉ định đồng xu cho anh kia ném, lựa những đồng xu nằm khít nhau hoặc chồng lên nhau mà luật chơi bắt buộc ném phải chỉ trúng một xu thôi, nếu trúng hai xu thì kể như đến phần anh đi thứ nhì. Lần nầy anh thứ nhì gom lại số xu còn lại và cũng chơi như anh thứ nhất cho đến khi không còn đồng xu nào nữa là bắt đầu cuộc chơi sau.

     Trò chơi nầy cũng như các trò chơi khác tập cho trẻ con rèn luyện được tính khéo léo, chính xác và một ít thao lược...

Một số khác lại chọn một gốc sân chơi trò đánh đáo. Đánh đáo có loại đánh đáo và đánh đáo tường và cũng còn gọi là mổ đáo cùng dùng đồng xu thường là xu bảng và khi mổ vào tường đồng xu chạy đi lấy lằn mức gạch dưới đất làm chuẩn và lấy mức độ xa gần so với lằn mức để đánh giá sự ăn thua. Cũng có anh đi sau lấy xu mình “bạt” xu của anh trước cho xa mức ăn thua...giống nhu trò chơi “pêtăng” bây giờ (pétanque, hay còn gọi là đánh boule, là một trò chơi rất thịnh hành ở miền nam nước Pháp, nơi có khí hậu ấm áp nhứt nước Pháp).

     Một số trò nhỏ chỉ cần tập họp lại, một tay nắm một chân lên nhảy lò cò và tìm cách lấy đầu gối của mình đụng vào bạn, không có thắng thua chi có những tràng cười hồn nhiên rộn rã. Hoặc phân ra một người kiếm, rối tất cả người khác ùa chạy trốn trong góc trường, lùm cây, bụi cỏ...khi một trò nào bị phát hiện là trò nầy thay phiên kiếm bạn. Trò chơi đơn giản và có tên cũng đơn giàn là chơi “trốn kiếm”. Cũng trò chơi nầy mà các thành viên đứng vòng tròn còn người tìm kiếm bị bịt mắt lại, là trò chơi “bịt mắt bắt dê”. Cũng giống như vậy có trò chơi “giấu khăn”. Trò chơi thường do sự hưng phấn mà có, tự nhiên chúng tôi tập họp lại, đứa nầy hai tay vịn lên vai đứa kia thành một xâu dài, đứa dẫn đầu chạy lôi cả một đoàn chạy sau quanh co trong đám học trò đang chơi giởn, có lúc vừa chạy vừa reo hò...gọi là chơi “rồng rắn”, có lúc vừa chạy vừa hoét hoét vừa xìn xịt xìn xịt...gọi là trò chơi “xe lửa”,,,chạy đến khi mệt rã đoàn, nhưng với một niềm vui vô tận. “Nhảy dây”, có khi chỉ một mình với sợi dây, những bạn mảnh khảnh nhảy rất khéo, dẻo dai...còn có những bạn nhảy đôi nhảy ba do hai người bạn quay dây v. vv...

Riêng các cô chọn mấy gốc me tây có bóng mát để “đánh đúa”, chơi “búng thun”, “búng hột me”. Những trò năng động hơn dành cho các cô thích “nhảy dây”, “nhảy nhà”...Các cô gái rất khéo tay khéo chân nhìn các cô nhảy nhà, nhảy dây với những bước chân nhẹ nhàng uyển chuyển cũng như trò chơi đánh đủa, khi vừa tung trái banh lên, có khi là một cục đất, tay kia trải dài bó đủa cho rời ra để khi ngay lần đầu chỉ nhặt lên một chiếc đủa mãi cho khi hết một chục lại quay ra lần nầy nhặt 2 chiếc, lần ba nhặt 4, 5 v.vv... sau cùng đến lúc nhặt

nguyên bó đồng thời phải theo những qui định bởi những động tác càng về sau càng phức tạp hơn. Vậy mà có những bạn đi một hơi không hề phạm lỗi mặc cho các bạn cùng chơi vừa khâm phục vừa ganh tị.

     Ngoài ra con một thú chơi có tính văn hoá. Đó là “đánh cờ”. Xin nói nhanh là chúng tôi còn quá nhỏ để đánh cờ tướng, cờ vua..nhưng cờ chúng tôi chơi cũng không kếm phần mưu trí. Đó là “cờ chó”, “cờ gánh”...

Một trò tiêu khiển nữa mà chỉ ở Trường Lá chúng tôi mói có. Đó là chúng tôi rảo theo mấy tấm vách lá, nhìn vào phía dưới cố tìm cho ra những ổ....”cúc”. Cúc là một loại côn trùng, một con vật lạ lùng từ cấu trúc thân hình đến lối sống.

     Nó nhỏ lắm cở nửa hạt đậu xanh, mình mềm, đầu nhỏ, có 6 chân mọc giữa đầu và thân giông giống một con nhện mini. Khi chúng tôi thấy dưới đất nơi kẹt vách, kẹt cửa có một dấu hiệu trong cát hay bụi đất một lổ nhỏ như vú cao xoáy tròn như miệng quặng (phễu) chúng tôi biết đó là ổ con cúc. Thế là chúng tôi dùng miệng thổi cát hay bụi lên là lộ ra con cúc. Nhưng bắt cúc rồi thôi không phải là trò chơi, vì có gì chơi với con vật tí xíu nầy. Mà chúng tôi dùng con cúc vừa bắt được lấy tóc hay một sợi chỉ cột vào cổ nó rồi tìm một ổ cúc khác để câu con cúc khác. Khi chúng tôi thả con cúc mồi xuống ổ, giống như câu cá, con cúc trong ổ lập tức ngoi lên tưởng là đồng loại đến chiếm ổ mình nên cắn con cúc mồi. Thế là chúng tôi giở lên được hai con. Đó là một trò chơi con nít nhưng khá thú vị cho những buổi trưa hè...khi không có gi để chơi.

Ngoài ra chúng tôi còn có những trò chơi rất trẻ con nhưng nỗi đam mê của chúng tôi vẫn cao độ. Chẳng hạn chúng tôi sưu tầm vỏ chai nước ngọt hay bia ngày xưa thường gọi là la-ve (bière của hiệu Larue ở Chợ Lớn) đem về dùng gạch hay đá đập dẹp ra - còn gọi là nút khoén - sắp xếp theo từng loại từng hiệu xem như một bộ sưu tầm, hay chơi trò chơi nút khoén.

     Cũng vậy chúng tôi ra ngoài đường hay vào tiệm nước lục lọi tìm nhặt những bao thuốc lá. Đủ các hiệu như thuốc nội chúng tôi đánh giá không bằng loại thuốc ngoại. Thuốc nội gồm có Mélia, Bastos, Capstan, Golden còn gọi là Nút chuồn....Thuốc ngoại gồm có Philips Morris, Craven’A’ hay Con Mèo (Thầy Nguyễn Văn Đạt, Hiệu trưởng trường chúng tôi chuyên hút thuốc Craven A’ mà còn hút thuốc đựng trong hộp tròn mới sang chớ!).. . (Lúc bấy giờ chưa có Salem của Mỹ đâu nên chưa có từ OK Salem, nói cho vui vậy mà!). Chúng tôi

nhặt các bao thuốc nầy về, cẩn thận tháo ra, vuốt cho thẳng thóm ép lại trong sách, phân ra từng nhóm...để trao đổi với nhau tuỳ theo giá trị của từng loại giống như người ta chơi tem vậy. Khi có nhiều chúng tôi cũng dùng mấy bao thuốc nầy để chơi trò tạt hình.

     Đá dế cũng là một trò chơi rất được ưa chuộng và không tốn tiền (như đá gà). Phải cố công nghe theo tiếng gáy chui vào buội rậm tìm bắt những con dế cự phách, gáy to, thân hình vặm vỡ mới có thể đá thắng đối thủ được. Tụi tôi nuôi dế trong những hộp quẹt khoảng 7x5x3 cm, cho ăn uống đầy đũ, sống được nhiều ngày. Mỗi trận đá dế chỉ có hai chiến sĩ nhỏ bé trong một vòng tròn đường kính khoảng 2 tấc, nhưng chung quanh là hàng chục đôi mắt reo hò cổ võ, theo dõi một cách say mê.

     Cũng nên nói thêm học trò Trường Lá còn những trò chơi độc đáo khác nhưng vì điều kiện sân bãi và thời gian không có nên các trò chơi nầy phải dành chơi ngoài sân trường và trong những ngày nghỉ học. Đó là “đánh trỏng”, hay “đánh u”, “đánh gồng”, “thả diều”, nhất là “tắm sông” còn gọi là “tắm cầu tàu” (tắm

sông một đề tài hấp dẫn đã được nhiều tay viết nguyên là học sinh Trường Lá đã từng khai thác như Võ Thành Dũng, Huỳnh Quốc Minh, ...). Nhưng phải kể một chuyện, một trò chơi mang mầu sắc Thiếu lâm một chút, có tính anh hùng mã thượng một chút. Đó là rủ nhau “đánh lộn”. Các võ công kiêm đô vật nầy cùng hẹn nhau đến một nơi vắng vẻ, chia ra hai phe và cùng nhau ấu đả. Đủ các món võ, cổ truyền, võ học lóm cũng có, tự sáng chế cũng có... và khi tan trận có những đấu thủ u đầu, trầy da, rướm máu...do những thế võ bí hiễm của đối

phương để lại. Nhưng tinh thần nhà võ mà, không lấy thành bại mà luận anh hùng nên bắt tay hẹn…tái đấu vào một ngày khác. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, hầu hết những trò chơi tuổi thơ nầy đã lùi dần vào quá khứ. Những trò chơi nầy vừa ngây thơ, vừa không tốn kém, đôi lúc cần sáng tạo và nhứt là tạo được tình bạn trong sáng vì bất cứ trò chơi nào cũng cần có bạn, có đối thủ trong không gian rộng rãi … Hiện nay các em thường chơi những trò chơi điện tữ, một mình đối diện với vi tính, chung quanh là bốn bức tường; các em không còn hưởng được không gian trong lành của ngày trước, không có được tình bạn thắm thiết như xưa…

                       TRÒ CHƠI TÌM CHỮ

     Khi lên lớp Nhì và lớp Nhất chúng tôi đã có một số vốn liếng kha khá về Pháp văn và nhất là khi thi bằng Tiểu học hay thi vào đệ Nhất niên trường Trung học Mỹ Tho, Trường Nguyễn Đình Chiểu, chúng tôi phải trải qua môn thi Pháp văn được cho là môn quan trọng nên chúng tôi trau giồi môn nầy dữ lắm. Cho nên những lúc rảnh rang như giờ chơi mà trời mưa không ra sân chơi đùa được nhất là các bạn ở lại trường ăn cantine...vào giờ trưa thường rủ nhau chơi trò “thi tìm chữ”.

     Trò chơi thế nầy, lúc bấy giờ học sinh thường có cuốn tự điển Pháp văn rất phổ biển tức là quyển Petit Dictionnaire Larousse, trong quyển tự điển nầy nơi trang đầu của mỗi mẫu tự có một phần minh hoạ các hình vẽ: một con vật, một món đồ, bản đồ một xứ...mà không có chua tên. Hai bạn cùng lật ra trang đầu của một mẫu tự chẳng hạn mẫu tự B. Hai bạn thay phiên, bạn nầy đi trước, bạn kia đi sau. Chơi chữ là cứ nhìn hình mà nói lên từ chỉ hình đó mà phải nói cho trúng.

     Người nầy nói xong một từ, đến phiên người kia cho đến khi có một bạn bí...không thể tiếp tục... là thua. Chẳng hạn ở mẫu tữ B, anh đi trước chỉ vào hình cá ông và nói lớn baleine, anh thứ hai chọn hình cái cân và nói lớn balance, rồi trở lại anh thứ nhất nói barrique, rồi lần lượt: Brésil, bague....bac.....bébé.....bec....bouche.....ballon.....bambou....baromètre....bâton... cho đến khi có một bạn không tìm ra từ kế tiếp là thua. Tuy nhiên khi cả hai đã nói được hết từ trong số hinh thì...huề. Lật sang mẫu tự khác chơi nữa. Trò chơi không có thắng bại chỉ có thắng mà thôi vì nhờ đó mà chúng tôi có thêm một số vốn về ngữ vựng Pháp. Một trò chơi vô cùng bổ ích trong đời học trò của chúng tôi.

                              TIẾNG TRỐNG TRƯỜNG

     Thùng thùng.....thùng, ba tiếng trống báo giờ chơi, giờ xã hơi...chỉ trong mười lăm phút. Tiếng trống trường nơi Trường Lá đã từng vang dội trong tim chúng tôi nay xa lắm rồi... mà dường như những tiếng trống nầy vẫn còn vang vang trong ký ức nay đã cằn cỗi nhiều.

     Nội việc tiếng trống trường mà tôi vẫn có chuyện phải nói, xin độc giả đừng cho tôi...nhiều chuyện. Thuở tôi học lớp Ba trường làng, trường làng làm gì có lao công...để đánh trống còn thầy thì trăm công ngàn việc. Thôi thì dành cho học trò mà phải là học trò có sức vóc thì tiếng trống mới có âm vang xa. Mà học trò thì cũng khoái cái vụ nầy lắm. Trong đó có tôi.

Sáng sớm học trò đến trường cất tập vào bàn chạy ra sân chơi giởn, còn những15-30 phút để nô dùa. Tôi cũng trong đám học trò đang chơi ngoài sân nhưng thỉnh thoảng nhìn thầy. Khi thầy ra dấu là tôi nhanh chân chạy ra hành lang sau trường, nơi treo một cỗ trống chầu to tướng mà làng mới mua về cho trường.

     Đông học, tan học, giờ chơi...lối đánh khác nhau. Đông học sáng hay chiều cũng vậy. Trước hết phải nhịp nhẹ 2 tiếng hay 4 tiếng, nhịp xong bắt đầu đánh khởi đầu chậm rãi, lớn dần cho đến khi lên đến cực độ lại nhỏ dần, nhỏ dần cho dến khi chấm dứt là tiếng trống vẫn còn từ từ, ngân xa... Xong hồi trống báo nầy là tiếp theo ba tiếng trống lịnh: Thùng thùng....thùng. Âm thanh lớn, dứt khoát. Lối đánh trống “đông học” là như vậy và được gọi là “một hồi lợi ba dùi”.

Học trò xếp hàng trước cửa lớp, đứng ngay ngắn. Thầy đứng lên đầu hàng, học trò xây mặt lại đưa hai bàn tay ra trước cho thầy kiểm tra. Thầy đi giữa hai hàng và xem bàn tay có sạch sẽ không, móng tay có cắt ngắn không, trước khi chovào lớp.

     Trống giờ chơi ngắn hơn gọn hơn chỉ có 3 tiếng: thùng thùng....thùng. Trống báo hiệu hết giờ chơi cũng vậy.

     Trống tan học cũng khác với lối trống “đông học”: Chỉ có một hồi mà không “lợi ba dùi” như cách đánh trống “đông học”. Ngày xưa là như vậy cho mãi đến bây giờ những hồi trống đó, âm thanh đó dường như còn đọng lại trong tôi. Bây giờ thỉnh thoảng tôi cũng có nghe tiếng trống trường đây đó, nhưng dường như lối đánh trống ngày nay khác hơn thuở tôi còn nhỏ.

               GIỞ LẠI TRANG SỬ “TRƯỜNG LÁ”

      Chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam bộ xong, năm 1961 quân Pháp đem quân đánh chiếm Mỹ Tho làm bàn đạp để tiến đánh Vĩnh Long. Sau khi thôn tính nốt 3 tỉnh miền Tây, người Pháp lập tức tổ chức bộ máy chính quyền thuộc địa ở Nam kỳ lục tỉnh. Lẽ tức nhiên họ cũng mở trường học để dạy tiếng Pháp và tiếng Quốc ngữ.

     Trước đó ở nước ta triều đình Nhà Nguyễn cũng đã xây dựng lên một hệ thống dạy học khá hoàn chỉnh, dưới sự dẫn dắt dạy dỗ của Thủ Khoa Huân, Phan Hiến Đạo, Phan Văn Trị, Học Lạc và một số sĩ phu khác.Cho nên mặc dù ngưòi Pháp lập trường mở lớp dạy chữ Pháp và Quốc ngữ nhưng đa số người Việt vẫn còn mặn mòi với chữ Nôm chữ Hán. Những trường lớp chữ Nho vẫn còn hoạt động mạnh mẽ cho đến những thập niên đầu của thế kỷ XX. Trong số đó có một trường dạy chữ Nho ở Cầu Vĩ (Gò Cát), cho đến năm 1950 vẫn còn hoạt động với Thầy Phan Trọng Am còn gọi là Tùng Am hay Tòng Am.

     Ngôi trường đầu tiên do người Pháp lập tại Mỹ Tho tên là trường Tổng (École Cantonnale) ở đầu đường De Castelneau (đường Trần Quốc Tuấn, phường 7 bây giờ). Xin nhớ ngôi trường Tổng nầy được thành lập trước trường Trung học Mỹ Tho – 1879 - (collège de Mỹ Tho). Gọi là trường Tổng vì trường thu nhận học sinh trong tổng Thuận Trị (một đơn vị hành chánh giữa quận và xã, nay không còn. Địa hình tổng Thuận Trị gần giống như của thành phố Mỹ Tho bây giờ).

     Đây chỉ là một trường Sơ đẳng tiểu học mà thôi (école primaire élémentaire) chỉ thu học sinh cho 2 lớp, lớp Đồng ấu (lớp 1, cours enfantin), lớp Dự bị (lớp 2,cours préparatoire).

     Vì trường chỉ có 2 lớp, lớp Đồng ấu và lớp Dự bị nên học sinh sau khi học lớp dự bị xong tiếp tục học ở đâu? Vào Trường Trung học Mỹ Tho (Nguyễn Đình Chiểu bây giờ) học lớp Sơ đẳng (lớp 3, cours élementaire). Bởi vì dù mang tiếng là trung học, nhưng vì trường Tổng chưa có học sinh trọn cấp tiểu học, nên trường Trung học Mỹ Tho trong thời gian chờ đợi phải thu học sinh lớp Sơ đẳng. Cho đến khi trường Tổng phát triển thành một trường Tiểu học Bổ túc hẵn hòi (école primaire complémentaire) có từ lớp Đồng Ấu đến lớp Nhứt thì trường Trung học Mỹ Tho mới nhận học sinh vào lớp Đệ nhất niên (Première année) cho bậc trung học đúng theo vai trò của nó.

     Trường Tổng nầy sau đó dời về đường Maréchal Foch (đường Ngô Quyền bây giờ), rồi đến năm 1925 được dời về Boulevard Bourdais (Đại lộ Hùng Vương) ngang với trường Nguyễn Đình Chiểu, xây cất với tầm vóc qui mô và chính thức đổi tên là “Nhóm học sinh Mỹ Tho” (Groupe scolaire de My Tho). Nhưng trong văn kiện hành chánh người ta thường dùng là: Trường Tỉnh Mỹ Tho (École provinciale de Mỹ Tho).

                    NHỮNG LẦN TRƯỜNG BỊ TRƯNG DỤNG

     Lần 1: Năm 1939 quân đội Pháp từ Sài Gòn xuống chiếm đóng trường để hành quân chống phong trào Nam kỳ Khởi nghĩa ở Long Hưng. Trường bị trưng dụng trong thời gian ngắn học sinh phải nghỉ học nhưng số học sinh lớp Nhứt vì sắp thi lấy bằng Tiểu học nên được cho ở lại học.

     Lần 2: Năm 1940-1942, bị quân đội Nhật chiếm đóng, trường phải tạm dời về đường Filippini, đường vào Đất Thánh (đường Tết Mậu Thân bây giờ) trên bờ giếng nước mé bên đường đi Sài Gòn, xây cất tạm bằng cây lá. Và tên “Trường Lá” đã xuất hiện ở đây rồi. Nhưng không phải là “Trường Lá” của chủ đề nầy.

     Lần 3: Đây là lần trường chính thức mang tên “Trường Lá” ngôi trường đã để lại dấu ấn không phai của tuổi thơ chúng tôi. Năm 1946 quân Pháp trở lại Mỹ Tho lại trưng dụng trường làm doanh trại. Lần nầy trường dời về đầu đường De Castelneau (sau đó là đường Trần Quốc Tuấn, rồi ông bà Nguyễn Trung Long và bây giờ là Nam kỳ Khởi nghĩa) gần Cầu Bắc Rạch Miễu và cũng được xây cất bằng cây lá nên chính thức được gọi là “Trường Lá” còn gọi là “Trường Cầu Bắc”. Vì bị dời đi, tên trường “Nhóm học sinh Mỹ Tho” hay “Trường Tỉnh” bị lãng quên. Thậm chí đến bây giờ có người còn cho là “Trường Lá” và “Trường Nam Tiểu học” sau nầy, là hai trường khác nhau. Vậy “Trường Lá” là một ngôi trường “chính qui” của tỉnh Mỹ Tho xưa, nhưng vì số phận trong thời chiến phải “tản cư” mấy lần và hẩm hiu mang một cái tên “bụi đời”.

     Lần 4: Năm 1954, quân đội Pháp rút đi, tưởng là “châu về Hiệp phố” nào hay số còn lận đận, trường lại bị trường Thiếu Sinh Quân mượn. Và mãi đến năm 1956 trường mới được hoàn trả lại vị trí của nó ở đường Hùng Vương sau mầy lần “lưu vong”.

    “Trường Lá” đã trở về vị trí của nó tức là với cái tên “Groupe scolaire de Mỹ Tho” vào năm 1956 và lúc bấy giờ nền giáo dục Việt Nam đã định hình nên khi tỉnh Mỹ Tho và Gò Công sáp nhập để trở thành tỉnh Định Tường, trường được mang tên chính thức là “Trường Tiểu học Trương Công Định”. Từ năm 1960 trường lại đổi là “Trường Tiểu học Cộng đồng Mỹ Tho”. Từ năm 1966 trường chính thức mang tên “Trường Nam Tiểu học Mỹ Tho”.

     Sau ngày 1.5.1975, trường Nam Tiểu học Mỹ Tho chấm dứt vai trò giáo dục tiểu học của nó để trở thành một trường Trung học cấp II với tên trường “Trung học cơ sở Xuân Diệu”. Vào năm 1999, khu trường xây cất từ năm 1925 được phá bỏ và xây cất lại hoàn toàn mới. Xin nói thêm: Từ ngày mới thành lập trường vẫn là trường hổn hợp (mixte) dạy chung học sinh trai và gái mãi đến năm 1956 mới có trường Nữ Tiểu học cất riêng cho học sinh gái ở đường Nguyễn Trung Long nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Ngôi trường Nữ nầy thoạt đầu mang tên Trường Trưng Vương sau là Trường Nữ Tiểu học Mỹ Tho nay là Trường Tiểu học Thủ Khoa Huân.

                    DANH HIỆU TỪ NGÀY THÀNH LẬP ĐẾN NAY

                         1. Trường Tổng

                          2. Groupe scolaire de Mỹ Tho

                         3. École provinciale de Mỹ Tho

                         4. Trường Lá hay Trường Cầu Bắc (giai đoạn di dời)

                         5. Trường Tiểu học Trương Công Định

                         6. Trường Tiểu học Cộng đồng Mỹ Tho

                         7. Trường Nam Tiểu học Mỹ Tho

                         8. Trường Trung học cơ sở Xuân Diệu.

            KẾT

                Ở Mỹ Tho, “Trường Lá”, cũng như “Trường Nam Tiểu học Mỹ Tho” “Trường Nữ Tiểu học Mỹ Tho” kể cả “Trường Tổng” xa xưa có cả trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu, trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân...mà tất cả nơi đó còn ghi lại bóng hình của Thầy xưa Bạn cũ, những người thân thương đầu đời thời thơ ấu mà tình cảm như còn trinh nguyên trong trắng...cùng với hình ảnh các ngôi trường mà nay, một số đã mai một với thời gian hoặc một số còn lại vớinếp cổ kính rêu phong nhưng rồi đây cũng sẽ theo luật đào thải mà đi vào quá khứ...Tất cả đều qua đi, chỉ còn lại trong tâm ta những kỷ niệm vui buồn sâu lắng, còn vương vấn mãi trong ký ức con người vốn đa sầu đa cảm.

                                                                       Mặc Nhân TVC & Võ Thành Dũng

                                                                                  (Cuối thu 2012)

Last Updated on Sunday, 23 December 2012 09:04